Bệnh dại là bệnh truyền nhiễm virus cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương lây truyền từ động vật sang động vật và động vật sang người bởi chất tiết, thông thường là nước bọt mang virus dại. Khi virus xâm nhập vào cơ thể từ vết cắn, vết xước, vết liếm (tiếp xúc với vùng da trầy xước hoặc rách),... chúng theo các dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương ở đây virus sinh sản rất nhanh rồi lại theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt tiếp tục truyền nhiễm. Vậy những tác hại mà bệnh dại mang đến là gì ? Cách phòng tránh ra sao mời bạn đọc theo dõi bài viết.
1. Bệnh dại là gì?
Bệnh dại là bệnh truyền nhiễm virus cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương lây truyền từ động vật sang động vật và động vật sang người bởi chất tiết, thông thường là nước bọt mang virus dại. Khi virus xâm nhập vào cơ thể từ vết cắn, vết xước, vết liếm (tiếp xúc với vùng da trầy xước hoặc rách),... chúng theo các dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung ương ở đây virus sinh sản rất nhanh rồi lại theo dây thần kinh ra tuyến nước bọt tiếp tục truyền nhiễm. Virus dại khi đã đủ số lượng chúng sẽ phá hủy hệ thống thần kinh làm cho vật chủ xuất hiện các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh dại. Khi đã lên cơn dại, kể cả động vật hay người đều dẫn đến tử vong.
Bệnh dại là gì ? |
2. Nguyên nhân
Tác nhân của bệnh dại bắt nguồn từ virus dại có tên khoa học là Rhabdovirus thuộc họ Rhabdoviridae, giống Lyssavirus.
Hình dạng: Virus hình viên đạn một đầu tròn một đầu dẹt, chiều dài trung bình 100-300nm, đường kính 70-80nm. Sưj thay đổi chiều dài virus phản ánh sự khác biệt của chủng loài của virus. Virus dại có bộ gen là ARN.
Virus Rhabdovirus - Virus Bệnh Dại |
Virus dại bao gồm : 67% Protein, 26 % Lipit, 1% ARN và 3% Cabonhydrat. Vỏ của virus có hai màng mỏng Photpholypid xen kẽ với những gai. Nucleocapside có cấu trúc hình trụ đối xứng. Nhân là ARN một sợi được bảo vệ bằng các đơn vị nucleoprotein mang tính đặc hiệu của họ Rhabdo, vỏ ngoài là chất Lipid nên rất dễ phá hủy trong dung môi lipid.
Sức đề kháng của virus dại yếu, dễ bị bất hoạt ở nhiệt độ 56 độ C trong vòng 30 phút, ở 60 độ C trong 5-10 phút và 70 độ C trong 2 phút. Virus bị mất độc lực dưới ánh sáng và các chất sát khuẩn ở nồng độ 2-5%.Trong điều kiện lạnh 4 độ C, Virus có thể sống vài tuần đến 12 tháng,ở 0 độ C vius có thể sống từ 3- 4 năm. Virus dại được bảo tồn chủ yếu trong cơ thể vật chủ.
Có hai chủng virus dại : Chủng virus dại đường phố và virus dại cố định. Chủng virus dại đường phố xuất hiện ở các động vật bị bệnh còn virus dại cố định là virus có thời gian ủ bệnh trên thỏ ( Đây là virus đầu tiên dùng để làm vắc xin dại)
3. Triệu chứng
Giai đoạn tiền triệu chứng: 1-4 ngày, biểu hiện là cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác đau và tê tại các vị trí vết thương virus xâm nhập.
Giai đoạn viêm não: thường xuất hiện cảm giác mất ngủ, sợ kích thích (sợ ánh sáng, tiếng động, gió,... Ngoài ra còn có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, hạ huyết áp, đôi khi xuất tinh tự nhiên.
Virus dại xâm nhập vào cơ thể hủy hoại hệ thần kinh. |
Bệnh tiến triển theo hai thể: Thể liệt hướng thượng ( hội chứng Landly) và thể cuồng.
Bệnh tiến triển khá nhanh thường từ 2-6 ngày, đôi khi lâu hơn và chết do liệt cơ hô hấp.
4. Thời kỳ ủ bệnh
Thời gian ủ bệnh ở người từ 2-8 tuần, có thể ngắn khoản 10 ngày hoặc dài trên một hai năm. Thời gian ủ bệnh lâu hay ngắn tùy thuộc vào tải lượng virus xâm nhập vào cơ thể nhiều hay ít, sự nặng nhẹ của vết thương, khoảng cách xa gần từ vết thương đến não bộ.
Thời kỳ truyền bệnh: Với chó và mèo thời gian này thường là 3-7 ngày trước khi có biểu hiện lâm sàng rõ ràng. Dơi và một số loài động vật hoang dã khác có thể đào thải virus dại ít nhất 8 ngày trước khi có triệu chứng lâm sàng đôi khi có thể kéo dài đến 18 ngày trước khi chết.
5. Con đường truyền bệnh
Theo các nghiên cứu dịch tễ học thì ổ chứa virus dại trong thiên nhiên là loài động vật có vú máu nóng, thường gặp ở chó hoang dã, mèo, chồn, cầy, dơi, chuột,...và những động vật có vú khác. Ở Việt Nam chó là ổ chứa virus dại chủ yếu chiếm 96-97% sau đó là mèo 3-4% và các động vật khác.
Nguồn truyền bệnh dại ở người chủ yếu là từ các loài động vật hoang dã hay các động vật sống gần người, nhiều nhất là chó sau đó đến mèo và các loài động vật khác. Con đường truyền bệnh sẽ là những tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp từ vật chủ bị bệnh sang vật chủ chưa nhiễm bệnh. Các con đường đó sẽ là : các vết cắn, vết liếm, vết xước,... có chứa virus của vật chủ bệnh tác động đến vật chủ lành. Ngoài ra còn một con đường lây lan bệnh dịa nữa là các mô niêm mạc có chứa virus của người bệnh dại chết sang người được ghép.
6.Bệnh dại xử trí thế nào?
Xử lý vết thương: Rửa ngay thật kỹ vết cắn bằng nước xà phòng đặc, sau đó rửa bằng nước muối, bôi chất sát trùng như cồn, cồn iốt để làm giảm lượng vi rút tại vết cắn. Chỉ khâu vết thương trong trường hợp vết cắn đã quá 5 ngày. Tiêm vắc xin uốn ván và điều trị chống nhiễm khuẩn nếu cần.
Bảo vệ bằng miễn dịch đặc hiệu: Dùng vắc xin dại tế bào hoặc dùng cả vắc xin và huyết thanh kháng dại (HTKD) để điều trị dự phòng tuỳ theo tình trạng súc vật, tình trạng vết cắn, tình hình bệnh dại ở súc vật trong vùng. Không được lạm dụng trong sử dụng vắc xin và HTKD.Việc khám bệnh nhân bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc để có chỉ định điều trị dự phòng bằng vắc xin dại hoặc vắc xin + HTKD phải thực hiện càng sớm càng tốt. Hiệu quả điều trị dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: loại vắc xin, kỹ thuật tiêm, bảo quản sinh phẩm, đáp ứng miễn dịch của người bệnh.
7. Phòng bệnh
Phòng bệnh dại cho gia đình bằng việc hiểu biết về bệnh dại. |
- Tuyên truyền, giáo dục sức khỏe: cung cấp các thông tin cần thiết về bệnh dại và cách phòng chống bệnh dại, nhất là việc phát hiện súc vật bị bệnh dại, cách xử trí sau khi bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc.
- Địa phương, gia đình chủ động hợp tác kiểm tra giám sát những ổ dịch dại cũ để kịp thời ngăn chặn chúng tái trở lại.
- Tiêm ngừa dại cho vật nuôi trong nhà, rọ mõm ngăn chặn vật nuôi tiếp xúc với những động vật hoang dã trong khu vực.
- Điều kiện và thẩm quyền công bố dịch, chống dịch và công bố hết dịch: thực hiện theo Nghị định số 05/2007/NĐ-CP, ngày 9 tháng 1 năm 2007
- Chuyên môn: Khi con vật đã được xác định mắc bệnh dại phải tiêu hủy ngay (trường hợp không xác định được chủ vật nuôi thì ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm tiêu hủy) để ngăn chặn sự lây truyền bệnh sang súc vật khác và lây truyền sang người.
+ Cách ly, theo dõi những con vật nghi mắc bệnh dại, nhiễm bệnh dại.
+ Vệ sinh, khử trùng tiêu độc toàn bộ chuồng, cũi, dụng cụ chăn nuôi, vận chuyển, môi trường thức ăn, chất thải, các vật dụng khác đã tiếp xúc với con vật mắc bệnh.
+ Tất cả chó, mèo khỏe mạnh trong ổ dịch phải được nhốt, theo dõi.
+ Tiêm bắt buộc cho chó, mèo khỏe mạnh trong ổ dịch và các thôn tiếp giáp, tiêu hủy những con chó, mèo nếu không tiêm.
+ Tất cả những người bị chó, mèo cắn, cào, liếm hoặc tiếp xúc phải thực hiện nghiêm ngặt việc xử lý vết thương, khám và điều trị dự phòng; tuyệt đối không được điều trị bằng thuốc nam
Nguồn : Tài liệu cục Y Tế Dự Phòng
Nguyễn Công Dương